dịch vụ luật sư, tư vấn luật, công ty luật, luật sư, luật sư hà nội

Vợ mạo danh chữ ký của chồng để bán đất bố mẹ cho thừa kế chung, chồng có đòi lại được đất của mình không ?

Cập nhật: 24/9/2021 | 2:24:04 PM

Khi tôi đi lao động nước ngoài, vợ tôi ở nhà mạo danh chữ ký của tôi bán mảnh đất bố mẹ cho thừa kế chung . Giờ tôi về nước thì cô ấy cầm tiền đi nước ngoài làm ăn. Tôi có đòi lại được đất của mình không ?

Luật sư tư vấn:

Với vụ việc trên Luật sư có quan điểm tư vấn như sau:

Theo quy định của pháp luật thì mảnh đất bố mẹ cho thừa kế chung (trường hợp đảm bảo hợp pháp về thủ tục và giấy tờ thừa kế) thì đây là tài sản chung của vợ chồng.

Căn cứ Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, cụ thể tại Điều 33 có quy định về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Như vậy, tài sản do chồng tạo ra hay vợ tạo ra trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo đó, mảnh đất khi được thừa kế hợp pháp đứng tên hai vợ chồng thì được xác nhận là tài sản chung của hai vợ chồng, muốn thực hiện việc chuyển nhượng, tặng cho, dể thừa kế,… mảnh đất này đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Nếu một mình người vợ thực hiện chuyển nhượng như vậy sẽ là trái với quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nếu người vợ còn giả chữ ký để thực hiện giao dịch như vậy là hành vi vi phạm pháp luật.

Để lấy lại mảnh đất này người chồng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch này vô hiệu do không đáp ứng đủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch sự theo quy định tại Điều 117  Bộ luật Dân sự 2015, các bên sẽ phải trao trả cho nhau những gì đã nhận. Theo quy định, trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả (Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015).

Như vậy, người chồng có quyền yêu cầu kiện đòi tài sản này. Lúc này người chồng làm đơn yêu cầu giải quyết đến Tòa án để yêu cầu tuyên vô hiệu từ đó làm đơn đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bên đã nhận chuyển nhượng (nếu mảnh đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

Tuy nhiên, người chồng cũng cần lưu ý về thời hiệu khởi kiện yêu cầu đòi lại đất khi hợp đồng mua bán bị giả chữ ký. Theo đó:

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm, kể từ ngày:

  • Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch.
  • Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối.
  • Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép.
  • Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch.
  • Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

 

Luật sư Hà Thảo

Công ty Luật TNHH Hà Nội VDT

 

Bản quyền 2021 © Công ty luật Hà Nội VDT

Địa Chỉ: Tầng 3 toà nhà Savina số 1 Đinh Lễ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Điện Thoại: +84989316320 - Fax: +84989316320 - Email: trantien@ngheluat.vn

dịch vụ luật sư, tư vấn luật, công ty luật, luật sư, luật sư hà nội